Ly kỳ vụ án mất vàng 7 năm xử chưa xong

Ly kỳ vụ án mất vàng 7 năm xử chưa xong - Ảnh 1.

Trong 7 năm qua, đã ba lần TAND tỉnh Ninh Thuận mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và kết án bị cáo Khưu Mậu Tuấn (50 tuổi) về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Nhưng án sơ thẩm cứ tuyên rồi bị hủy, hủy rồi tiếp tục xét xử lại như cũ. Cho đến nay, sự thật của vụ án vẫn chưa được làm sáng tỏ.

7 năm quay “đèn cù”

Hồ sơ thể hiện tiệm vàng Hiền Lực ở phường Đạo Long, TP Phan Rang – Tháp Chàm (tỉnh Ninh Thuận) do bà Nguyễn Thị Hiền đứng tên. Trong thời gian ra nước ngoài chữa bệnh, bà Hiền giao lại cho em họ là bà Đặng Thị Nga (50 tuổi) quản lý. 

Bà Nga thuê ông Tuấn phụ việc tại tiệm vàng. Hằng ngày, ông Tuấn có nhiệm vụ phụ bà Nga kinh doanh rồi đem vàng, tiền ra nhà xe Liên Thành ở TP Phan Rang – Tháp Chàm để gửi vào TP.HCM.

Khoảng 19h ngày 13-1-2014, bà Nga đưa cho ông Tuấn hơn 18 lượng vàng 24K, 28 lượng vàng 18K, tiền VNĐ và USD với tổng giá trị khoảng 2,6 tỉ đồng để đi gửi. Do ông Tuấn là người thân trong nhà nên khi giao tài sản giữa họ không có biên bản giao nhận gì. 

Việc giao nhận này chỉ dựa trên lòng tin và được camera của tiệm vàng theo dõi. Sau khi nhận tiền, vàng, ông Tuấn nhét vào túi nilông màu đen, bỏ túi nilông vào túi vải bố rồi để giữa baga xe máy, quai túi treo vào kính chiếu hậu bên trái của xe.

Theo lời khai của ông Tuấn, khi chạy xe đến trước nhà số 88 Nguyễn Thị Định (KP4, P. Tấn Tài) thì bị một người đi xe máy cùng chiều vượt lên giật giỏ tiền làm ông ngã ra đường. Bà Trần Thị Mười, chủ căn nhà số 88, thấy thế nên chạy ra đỡ ông Tuấn dậy. 

Lúc này, có nhiều người dân ở gần đó thấy tai nạn nên cũng kéo ra xem. Nghe ông Tuấn nói bị cướp, mọi người hỏi: “Bị cướp sao không la lên để người ta bắt cho?”, ông Tuấn trả lời: “Quýnh quá không la lên được”.

Bản kết luận điều tra cáo buộc sau khi vụ tai nạn xảy ra, ông Tuấn chần chờ không gọi công an đến giải quyết. Quá trình điều tra, ông Tuấn quanh co, thay đổi lời khai, cho rằng mình không chiếm đoạt số tiền bị mất. 

Tuy nhiên, với tài liệu và các chứng cứ thu thập được, cơ quan điều tra cho rằng lời khai của ông Tuấn là gian dối, tạo hiện trường giả nhằm che đậy hành vi chiếm đoạt tài sản. Cơ quan điều tra đề nghị truy tố ông Tuấn về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Tháng 1-2015, TAND tỉnh Ninh Thuận đã mở phiên xét xử sơ thẩm và tuyên phạt ông Tuấn 14 năm tù về tội danh trên. Ông Tuấn kháng cáo kêu oan. 

Sau đó, TAND cấp cao tại TP.HCM xét xử phúc thẩm và tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. Hồ sơ vụ án được chuyển cho Công an tỉnh Ninh Thuận điều tra theo thủ tục chung. Sau đó, Viện KSND tỉnh Ninh Thuận vẫn truy tố ông Tuấn tội danh như cũ.

Tháng 7-2017, TAND tỉnh Ninh Thuận tiếp tục mở phiên xét xử sơ thẩm lần 2 và tuyên phạt ông Tuấn 12 năm tù. Bị cáo này lại tiếp tục kháng cáo kêu oan. Bản án này sau đó lại bị TAND cấp cao tại TP.HCM tuyên hủy, trả hồ sơ điều tra lại.

Sau khi kết thúc điều tra lại, TAND tỉnh Ninh Thuận lại tiếp tục đưa bị cáo ra xét xử sơ thẩm lần 3 và tuyên phạt 12 năm tù. Ông Tuấn lại kháng cáo. Hiện ông Tuấn đã bị tạm giam gần 6 năm và đang chờ phiên xét xử phúc thẩm lần 3 diễn ra.

Kết tội theo hướng suy đoán

Trong cả hai bản phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM đều chỉ ra hàng loạt sai sót, mâu thuẫn của vụ án mà các cơ quan tố tụng tỉnh Ninh Thuận chưa làm rõ. Mấu chốt vụ án mà tòa phúc thẩm chỉ ra là các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm kết tội bị cáo chỉ dựa trên suy đoán chứ chưa đủ căn cứ vững chắc.

Theo tòa phúc thẩm, kết quả điều tra cho thấy xe máy do ông Tuấn điều khiển ngã về bên trái, ông Tuấn bị ngã về bên phải là có thật. Khi ông Tuấn ngã thì có xe máy của một thanh niên chạy qua. Tuy nhiên, các nhân chứng đều xác định hiện trường ông Tuấn ngã không có giỏ tiền văng ra, cũng không có ai lấy giỏ tiền. 

Từ đó, cơ quan điều tra cho rằng: không ai có thể giật giỏ tiền, ông Tuấn khai có người làm ngã rồi cướp giỏ tiền là gian dối. Việc tòa án cấp sơ thẩm suy đoán giỏ tiền treo trên xe không ai có thể giật được, nhân chứng không nhìn thấy vụ cướp giật, từ đó quy kết ông Tuấn gian dối, theo tòa án cấp phúc thẩm thì suy đoán này hoàn toàn chưa đủ căn cứ và chỉ là nhận xét chủ quan.

Một vấn đề quan trọng của vụ án nhưng các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không làm rõ được là: ông Tuấn chiếm đoạt số tiền, vàng vào thời gian nào? Cụ thể, đoạn đường từ tiệm vàng đến chỗ tai nạn chỉ hơn 700m. Toàn bộ diễn biến từ lúc ông Tuấn nhận vàng, đi đường, bị tai nạn, nằm bất động một lúc, được người dân đỡ dậy hỏi han, đi gọi nhờ điện thoại báo về tiệm vàng… chưa tới 12 phút. 

Tuy nhiên, cơ quan điều tra không xác định được trong 12 phút đó có bao nhiêu thời gian ông Tuấn đi từ tiệm vàng ra đường, thời gian này có đủ điều kiện để tiêu thụ chiếc giỏ bị mất không? Nếu ông Tuấn chiếm đoạt tài sản thì tiêu thụ bằng cách nào, vào thời gian nào mà không đem giỏ đến hiện trường? 

Lời khai nhân chứng cũng có nhiều điểm mâu thuẫn như không nhận dạng được người chạy xe vọt qua nhưng lại khẳng định người đó không mang theo giỏ xách. Theo tòa án cấp phúc thẩm, nếu không chứng minh được những nội dung này thì không thể làm rõ được sự thật của vụ án.

Khi điều tra, cơ quan điều tra đã tổ chức khám xét nhà ông Tuấn đột xuất, kiểm tra tài khoản ngân hàng, kiểm tra đất đai, tài sản của ông Tuấn và tất cả mối quan hệ làm ăn của ông Tuấn và người thân ông Tuấn nhưng không phát hiện được ông chiếm giữ tài sản bị mất.

Qua hai lần trả hồ sơ điều tra lại và ba lần xét xử sơ thẩm, những câu hỏi mấu chốt của vụ án vẫn chưa được làm rõ.

Dự kiến ngày 21-7, TAND cấp cao tại TP.HCM sẽ mở phiên xử phúc thẩm.

Không đủ chứng cứ, phải tuyên vô tội

Theo TS Đinh Thế Hưng (trưởng phòng pháp luật hình sự Viện Nhà nước và pháp luật – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Bộ luật tố tụng hình sự quy định một nguyên tắc: trách nhiệm chứng minh một người có tội thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.

Theo đó, cơ quan điều tra, viện kiểm sát phải chứng minh đầy đủ, không còn nghi ngờ nào nữa mới đủ chứng cứ buộc tội bị cáo. Tuy nhiên trong vụ án này, có thể thấy chứng cứ để kết tội ông Tuấn là chưa đầy đủ và vững chắc.

Vụ án này còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ để kết luận bị cáo phạm tội. Cụ thể, trong vụ án chiếm đoạt tài sản thì chứng cứ quan trọng nhất cần làm rõ là tài sản bị chiếm đoạt là gì, giá trị bao nhiêu, tình trạng thế nào, bị cáo chiếm đoạt lúc nào, tiêu thụ và cất giấu ở đâu.

Đặc biệt, cơ quan điều tra chưa thu giữ được tài sản thì chưa đủ chứng cứ vật chất để kết tội. Bên cạnh đó, việc có hay không vụ cướp giật cũng chưa được làm rõ, bởi có dấu hiệu của vụ cướp giật đã xảy ra…

Tất cả những vấn đề trên nếu không làm rõ được thì phải tuyên bị cáo không phạm tội, theo đúng tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Link Nguồn bài viết


Deprecated: Function WP_Query was called with an argument that is deprecated since version 3.1.0! Hãy sử dụng ignore_sticky_posts thay cho caller_get_posts (sẽ sớm bị loại bỏ) in /home/anninh/domains/anninh.org/public_html/wp-includes/functions.php on line 5677
Bài viết liên quan